Những thí nghiệm tâm lý vô nhân đạo để lại hậu quả nghiêm trọng

Ngày 18/04/2018 - Đăng bởi Lalung.vn
Thích & chia sẻ:

Sự kì diệu của bộ não con người luôn thu hút những nhà khoa học tài ba nhất thế giới. Nhiều nhà tâm lý học và bác sĩ thần kinh đã nỗ lực nghiên cứu bộ não con người để có thể hiểu và kiểm soát hành vi của con người. Với sự tiến hóa của nền văn minh, mức độ nghiên cứu của các nhà khoa học giờ đây đã có tính nhân đạo. Tuy nhiên, rất nhiều thí nghiệm vẫn hoàn toàn vô nhân đạo, phi đạo đức và vô đạo đức. Sau đây là một danh sách 10 thí nghiệm tâm lý kỳ quái, phi đạo đức và vô nhân đạo nhất với những kết quả thảm khốc.

 

1) Tony LaMadrid - Nghiên cứu của Đại học California đã yêu cầu những người tham gia nghiên cứu tâm thần phân liệt ngừng dùng thuốc. Kết quả của chương trình kinh khủng đến nỗi gần như tất cả các bệnh nhân tham gia đều tái phá bệnh và một người đã tự tử.

 

Thí nghiệm tâm lý, vô nhân đạo, khoa học, y học

Tony LaMadrid, một nam giới 23 tuổi có tiền sử trầm cảm và tâm thần phân liệt, đã được điều trị tại Khoa Tâm thần Trung tâm UCLA từ 1985 đến 1989. Trong suốt thời gian đó, anh vừa là một bệnh nhân vừa tham gia tích cực trong một nghiên cứu tâm thần của trường đại học. Nghiên cứu này mang tên "Các quá trình phát triển trong rối loạn tâm thần phân liệt" và được chỉ đạo bởi nhà tâm lý học Keith H. Nuechterlein và nhà tâm thầ học Michael Gitlin. Mục đích của nghiên cứu này là thu thập dữ liệu về cách thức và lý do tái phát bệnh tâm thần phân liệt. Thử nghiệm này yêu cầu bệnh nhân phải ngừng sử dụng thuốc để đánh giá tác động của thuốc lên bệnh nhân, lên người thường và cách hoạt động của não bộ.

 Thử nghiệm chỉ liệt kê đại khái các tác dụng phụ tiềm ẩn của việc dừng thuốc rằng tình trạng bệnh nhân có thể cải thiện, xấu đi hoặc giữ nguyên. Tuy nhiên, lý do gây ra khả năng tái phát bệnh lại khôg được làm rõ.

Các bệnh nhân trong quá trình sử dụng thuốc phản ứng rất tiêu cực đối với thí nghiệm.

 Cuộc thử nghệm đã có một kết quả thảm khốc khi hơn 90% bệnh nhân bị tái phát bệnh rất nghiêm trọng trong quá trình thử nghiệm. Kết quả cuộc thử nghiệm cũng không thực sự chính xác bởi nhiề bện nhân, do sẵn không thích dùng thuốc, thường nói dối về những ảnh hưởng của thí nghiệm đối với họ. Những nhà thử nghiệm không bao giờ phục hồi thuốc hay đi sâu hơn vào đời sống của các nạn nhân để điều tra thêm. Khoảng sáu năm sau cuộc thử nghiệm, Tony nhả lầu tự tử.

 

2) Dự án QKHILLTOP - Một dự án khác của CIA từ thập kỷ 50 nhằm nghiên cứu các kỹ thuật tẩy não để phát triển các phương pháp thẩm vấn mới của Trung Quốc. Những người tham gia đã phải chịu các biện pháp kiểm soát tâm trí với “hóa học, sinh học, và phóng xạ” Chưa hết, họ còn bị giam giữ, chị đói, chị nhục, tra tấn, tẩy não và thôi miên trong suốt dự án.

 

Thí nghiệm tâm lý, vô nhân đạo, khoa học, y học

@library.weill.cornell.edu

Năm 1954, CIA bắt đầu một dự án mang tên QKHILLTOP nhằm nghiên cứu các kỹ thuật tẩy não thẩm vấn của Trung Quốc lúc bấy giờ. Hầu hết các nghiên cứu này được thực hiện bởi các chương trình nghiên cứu sinh thái con người của trường Đại học Cornell dưới sự giám sát của tiến sĩ Harold Wolff. Tiến sĩ Wolff yêu cầu CIA cung cấp cho ông bất cứ thông tin nào họ có thể tìm thấy về sự đe dọa, áp lực, giam cầm, bỏ đói, sỉ nhục, tra tấn, “tẩy não” và thôi miên dù có dưới tác động của các chấhóa học hay không. Nhóm nghiên cứu sau đó sẽ tập hợp, đối chiếu, phân tích và thu thập thông tin này và thực hiện các cuộc điều tra thử nghiệm để phát triển các kỹ thuật mới về sử dụng trí thông minh tấn công / phòng thủ. Ông cũng yêu cầu có những “đối tượng thích hợp” (Con người) để nhóm của ông có thể thí nghiệm những thông tin và kỹ thuật này. Những kỹ thuật này thường liên quan đến các loại thuốc bí mật và các thủ tục gây tổn thương não khác nhau. Và để thực hiện các thí nghiệm này, ngoài các đối tượng, ông cũng yêu cầu một nơi thích hợp.

Kết quả cuộc thí nghệm tệ đến các nhà nghiên cứu CIA bị chỉ trích là “một đám ngu xuẩn mày mò khoa học giả tưởng. Những cuộc tra tấn, hám hiếp và bạo lực lên cả người lớn và trẻ nhỏ dẫn đến nhiều người tham gia trở nên điên loạn cả đời.

 

3) Bệnh nhân Emma Eckstein và Bác sĩ Sigmund Freud - vị bác sĩ người Đức đã điều trị bệnh nhân Emma vì chứng cuồng loạn và thủ dâm quá mức, mặc dù Emma chỉ khám bệnh dạ dày và trầm cảm nhẹ. Ông đã thực hiện một ca mổ cấp tiến Emma chỉ với một chút chất gây tê cục bộ và cocaine. Khi cuộc phẫu thuật kết thúc thamr bại, Freud sợ hãi và chạy trốn khỏi hiện trường cuộc giải phẫu.

 

Thí nghiệm tâm lý, vô nhân đạo, khoa học, y học

@Wikimedia Commons, Wikimedia Commons

Năm 27 tuổi, Emma Eckstein tới bác sĩ Sigmund Freud để điều trị bệnh dạ dày và trầm cảm nhẹ. Nhưng Freud chẩn đoán Emma bị chứng cuồng loạn và tin rằng cô đã thủ dâm quá mức. Thời bấy giờ, thủ dâm được coi là một bệnh tâm thần nguy hiểm, nên Freud bắt đầu đánh giá phân tích tâm lý của Emma. Cuộc đánh gia này kéo dài 3 năm.

 Freud cho rằng thói quen thủ dâm của Emma khiến cô đau chân nghiêm trọng, ông cũng cho rằng mô của mũi và bộ phận sinh dục có liên kết với nhau. Vậy nên chỉ cần loại bỏ phần trung gian này là xong. Freud cùng một bác sĩ khác, bác sĩ Wilhelm Fliess, đã thực hiện phẫu thuật lên Emma. Cô chỉ được tiêm 1 mũi gây tê cục bộ và cocaine trước khi bị đốt điện cuốn mũi. Cuộc phẫu thuật thảm bại, khiến cô chả máu mũi rất nhiều và thường xuyên.

Freud để lại 50cm gạc bông trong khoang mũi của Emma, và việc loại bỏ miếng gạc đó đã khiến mặt Emma bị biến dạng vĩnh viễn Freud đã hoảng sợ trốn chạy ngay trong quá trình giải phẫu.

Sau đó, Freud biện minh rằng các cơn xuất huyết sau mổ của Emma là do ảo tưởng của bệnh cuồng loạn “mong ước được yêu thương cùng căn bệnh của cô ấy” và hòng “lấy lại niềm yêu thương [của Freud]". Dù vậy, Emma vẫn tiếp tục cuộc phân tích tâm lý với Freud cho đến khi cô hồi phục lại hoàn toàn chức năng cơ mặt. Sau đó cô tự thực hiện nghiên cứu tâm thần học.

 

4) Liệu pháp giật điện trẻ em - Tiến sĩ Lauretta Bender của Bệnh viện Creedmoor ở New York đã sử dụng phương pháp trị liệu bằng điện cho trẻ em mắc những vấn đề xã hội. Thí nghiệm này đã sử dụng biện pháp giật điện lên hơn 100 đứa trẻ mỗi ngày với tổng cộng 20 lần “điều trị”. Kết quả, các em bị rối loạn lo âu nặng hơn và phát hiện cơ thể méo mó, biến dạng.

 

Thí nghiệm tâm lý, vô nhân đạo, khoa học, y học
 
@Wikimedia Commons

Vào những năm 50 và 60, người đứng đầu khoa tâm thần trẻ em tại Bệnh viện Bellevue ở thành phố New York, bà Lauretta Bender, đã tiến hành nghiên cứu sâu rộng về chứng tự kỷ. Bà tin rằng chứng tự kỷ thường là một trong những dấu hiệu đầu tiên của một loại bệnh tâm thần phân liệt. Bà bắt đầu những thí nghiệm lên những đứa trẻ tự kỷ bằng biện pháp điề trị điện động mạch cho bệnh nhân tự kỷ. Các phương pháp của Bender bao gồm phỏng vấn và phân tích một đứa trẻ nhạy cảm trước một nhóm lớn, sau đó áp dụng một lực nhẹ vào đầu của đứa trẻ. Theo lý thuyết, những đứa trẻ nào chuyển động với áp lực đều cho thấy những dấu hiệu sớm của bệnh tâm thần phân liệt. Các thí nghiệm cũng bao gồm liệu pháp sốc insulin, tức cho trẻ dùng quá liều insulin, khiến chúng rơi vào trạng thái hôn mê ngắn. Bà cũng đã cho các bệnh nhân uống các loại thuốc chống loạn thần như Thorazine. Cô cũng đã cố gắng cho trẻ tự kỷ uống LSD (chất kích thích) mỗi ngày trong chín tháng hoặc nhiều hơn, nhưng quyết định bọn trẻ đã trở nên "lo lắng hơn." Vào thời điểm liệu pháp này bị ngăn chặn, Bender đã điều trị giật điện động mạch cho ít nhất 100 trẻ em từ 3 tuổi đến 12 tuổi, với một số báo cáo cho biết tổng con số có thể gấp đôi.

Kết quả của những thí nghiệm kinh hoàng không kém gì chính thí nghiệm đó. Tình trạng của trẻ chỉ trở nên tồi tệ hơn sau khi điều trị. Một bệnh nhi 6 tuổi từ tính cách nhút nhát và rụt rè đã ngày càng trở nên tăng động và bạo lực. Một nữ bệnh nhi 7 tuổi sau năm cuộc điều trị điện giật đã phải chịu chứng rối loạn tâm lý. Một trong những bệnh nhi của bà Bender đã trở nên hung hăng quá thái sau 20 lần điều trị như vậy. Về sau, bệnh nhi này trở thành hung thủ của nhiều vụ giết người. Nhiều bệnh nhân khác cũng phải ngồi tù vì vướng vào hàng loạt các tội lớn nhỏ khi trưởng thành. Sau này, có hai nhà tâm lý học đã tiến hành nghiên cứu 50 bệnh nhi của Bender và kết luận rằng gần như tất cả các bệnh nhi đều bệnh nặng hơn sau “liệu pháp” và một số đã tự tử sau khi điều trị.

 

5) Giải phẫu chuyển đổi giới tính - David Reimer, một cậu bé người Canada, đã bị hủy hoại bộ phận sinh dục trong một tai nạn cắt bao quy đầu. Tiến sĩ John Money thuyết phục bố mẹ của Reimer khi còn bé rằng họ nên cho anh thực hiện phẫu thuật chuyển đổi giới tính. Kết quả là, mối quan hệ giữa anh và bố mẹ trở nên tệ hại mãi mãi, anh thất nghiệp và phải chịu nhiều vấn đề tâm lý khác. Cuối cùng, David đã tự kết liễu bản thân bằng súng.

 

Thí nghiệm tâm lý, vô nhân đạo, khoa học, y học

@debate.org, cbc.ca

Năm 1965, David (tên ban đầu là Bruce) và Brian là hai anh em sinh đôi, sinh ra ở Winnipeg, Manitoba. Sáu tháng sau, cả hai anh em đều bị chẩn đoán bằng mắc chứng hẹp bao quy đầu. Khi được gợi ý đi cắt bao quy đầu vào năm 7 tuổi, năm 1966, vị bác sĩ tiết niệu đã thực hiện phẫu thuật Bruce bằng phương pháp không chính thống, đó là dùng dao đốt. Quy trình phẫu thuật thất bại và làm cho dương vật của Bruce bỏng quá mức điều trị. Các bác sĩ sau đó đã chọn không phẫu thuật với người anh em song sinh, người đã may mắn thay điều trị được chứng hẹp bao quy đầu sau này mà không cần phẫu thuật.

Cặp cha mẹ, vì quan tâm đến hạnh phúc tương lai và khả năng tình dục của con mình, đã đưa Bruce đến gặp bác sĩ John Money tại Bệnh viện Johns Hopkins ở Baltimore năm 1967. Bác sĩ Money là nhà tâm lý học và tiên phong trong lĩnh vực phát triển tình dục và định hướng giới tính. Ông là người đề xướng ý tưởng “thuyết trung lập giới tính” - rằng nhận dạng giới tính phát triển chủ yếu là kết quả của nhận thức từ xã hội thời thơ ấu và có thể được thay đổi giới tính bằng nhưng hành vi can thiệp phù hợp.

Bác sĩ John Money và đội của ông thuyết phục bố mẹ Reimer rằng họ nên cho anh thực hiện phẫu thuật chuyển đổi giới tính. Khi mới 22 tháng tuổi, Bruce phải trải qua cuộc phẫu thuật cắt bỏ hai bên tinh hoàn và được cấy một âm hộ thô sơ bộ. Bruce được tái định hướng giới tính thành phụ nữ và đổi tên thành Brenda. Bác sĩ Money tiếp tục giám sát và hỗ trợ anh về mặt tâm lý trong khoảng một thập niên để đánh giá kết quả.

Ông tự thấy kết quả rất tích cực. Tuy nhiên, trong những chuyến thăm bác sĩ Money, bố mẹ Bruce thường nói dối và Bruce thấy những chuyến tái khám gây ra tái chấn thương tâm lý hơn là điều trị.
Bruce không tự nhận mình là phụ nữ. Anh bị đồng nghiệp và bạn bè bắt nạt và tẩy chay. Anh không hề cảm thấy như một phụ nữ ngay cả với những bộ cánh váy điệu đà hay hoocmon nữ. Năm 13 tuổi, Bruce muốn tự tử và đe dọa sẽ tự vẫn nếu bị bắt gặp bác sĩ Money một lần nữa. Vào ngày 4 tháng 5 năm 2004, Bruce lái xe tới bãi đậu xe của cửa hàng tạp hoá tại quê nhà Winnipeg và tự bắn vào đầu bằng một khẩu súng đạn ghém cưa ngắn nòng ở tuổi 38. (Nguồn)

 

6) Dự án Artichoke - CIA đã tiến hành một loạt các dự án kiểm soát tâm trí để thẩm vấn những đối tượng đặc biệt. Họ sử dụng các phương pháp và chất liệu khác nhau như thôi miên, LSD, cách ly hoàn toàn. Kết quả là các đối tượng để trở nên đờ đẫn, lẩm cẩm, mất trí.

 

Thí nghiệm tâm lý, vô nhân đạo, khoa học, y học

@wanttoknow.info, alangoffinski/bandcamp.com

Năm 1951, Văn phòng Thông tin Khoa học của CIA đã khởi xướng một dự án nhằm kiểm soát tâm trí mang tên “Artichoke”. Dự án này được giám sát bởi một đại diện từ các nhân viên nghiên cứu của CIA, cựu tướng quân của quân đội, Paul F. Gaynor, và thu thập thông tin từ các đơn vị tình báo của Quân đội, Hải quân, Không quân và FBI. Dự án cũng được đặt ra để trả lời câu hỏi, “Liệu chúng ta có thể kiểm soát được một cá nhân đến mức tuân thủ hoàn toàn mệnh lệnh được giao, kể cả khi cá nhân không đồng thuận với mệnh lệnh và thậm chí tuân thủ các mệnh lệnh đi ngược với luật cơ bản của tự nhiên, ví dụ như luật sinh tồn?"

Dự án cũng thực hiện các thí nghiệm trong và ngoài nước, sử dụng chất kích thích LSD, thôi miên và sử dụng biện pháp cô lập hoàn toàn để xây dựng các kĩ thuật tra vấn đối tượng con người.  Tương tự, những thí nghiệm ép nghiện morphine, cai nghiện ma tuý, sử dụng hóa chất gây ảnh hưởng trí nhớ cũng được thực hiện. CIA lựa chọn những người yếu thế trong xã hội làm đối tượng của dự án. Những người này bao gồm người đồn tính, dân tộc thiểu số và tù binh chiến tranh. Địa điểm thí nghiệm là những nơi cô lập ở Nhật Bản, Châu Âu, Châu Á và Philippines.

Kết quả của thí nghiệm vô nhân đạo này là các đối tượng tham gia phải chịu chứng hậu chấn thương tâm lý, mất trí nhớ và còn nhiều hơn thế. Vi rút sốt xuất huyết cũng được sử dụng trong các thí nghiệm.     

 

7) Chiến dịch Midnight Climax - Là một phần của dự án kiểm soát tâm trí do CIA tài trợ, dự án này dụ các đối tượng đến các điểm an toàn và bí mật đưa cho họ LSD hoặc các chất gây nghiện khác. Kết quả là những người tham gia “lên cơn điên” giữa nơi công cộng nhiều lần.

 

Thí nghiệm tâm lý, vô nhân đạo, khoa học, y học

@crimeshop.org, Wikimedia Commons

Trong những năm 1950, CIA lựa chọn những địa điểm an toàn tại San Francisco, Marin và Thành phố New York là những nhà thổ

CIA thuê gái mại dâm dụ dỗ khách hàng vào nhà thổ, sau đó họ bị lén cho dùng các chất kích thích gây nghiện và bị CIA theo dõi qua gương một chiều. Những vị khách bị dụ này đồng thời phải chịu làm đối tượng bất đắc dĩ cho nghiên cứu sâu rộng về sự ảnh hưởng của tống tiền tình dục, công nghệ giám sát, và thốc lú đến các hoạt động thực địa. Không những phải chịu làm chuột bạch bất đắc dĩ, những đối tượng này còn bị đe dọa, buộc phải giữ bí mật về cuộc thử nghiệm, nếu không muốn tiếp tục bị làm chuột bạch bất đắc dĩ.

Chiến lược sớm mở rộng và các nhân viên CIA bắt đầu đánh thuốc dân thường tại nhà hàng, quán bar, và bãi biển. Không chỉ có dân thường, mà những nhân viên CIA, nhân viên quân sự Mỹ và các điệp viên bị nghi là gián điệp Xô Viết cũng bị đánh thuốc và trở thành những đối tượng nghiên cứu bất đắc dĩ.  Kết quả, có rất nhiều trường hợp đối tượng bị suy nhược trong thời gian dài. Ngoài ra còn có báo cáo về một số người đã tử vong do dự án này. Các phản ứng phụ khác bao gồm một trường hợp một nhân viên bị đánh thuốc trong tách cà phê buổi sáng và trở nên điên loạn, chạy ngang dọc Washington, thét rằng có quái vật trong mỗi chiếc xe vượt qua anh ta. Một trường hợp nữa, một vị bác sĩ chưa bao giờ sử dụng chất kích thích bị đánh thuốc, đã rơi vào chứng trầm cảm nặng.  Ông nhảy lầu từ tầng 13.

 

8) Thử nghiệm Nhà tù Stanford - thí nghiệm nhà tù Stanford được Hải quân Hoa Kỳ tài trợ nhằm điều tra các ảnh hưởng tâm lý của quyền lực, tập trung vào cuộc đấu tranh quyền lực giữa tù nhân và các giám ngục. Cuộc thử nghiệm bị kết thúc đột ngột sau sáu ngày khi một số người tham gia bị cuốn sâu vào vai giám ngục, sử dụng các biện pháp cưỡng chế, và thậm chí còn tra tấn tâm lý các tù nhân.

 

Thí nghiệm tâm lý, vô nhân đạo, khoa học, y học

@Wikimedia Commons, Wikimedia Commons, twitter.com/anmccartney

Vào ngày 14 tháng 8 năm 1971, giáo sư Tiến sĩ Philip Zimbardo của Đại học Sandford đã bắt đầu một thử nghiệm nhằm kiểm tra giả thuyết rằng các đặc điểm tính cách vốn có của tù nhân và giá ngục là nguyên nhân chính gây ra những hành vi bạo lực trong tù. Ông đã tuyển chọn 24 người trong số những nam sinh viên khỏe mạnh và ổn định nhất về mặt tâm lý. Ông thông báo họ sẽ tham gia một cuộc mô phỏng trại giam kéo dài hai tuần. Văn phòng Nghiên cứu Hải quân Hoa Kỳ tài trợ nghiên cứu này để điều tra nguyên nhân gây ra những khó khăn giữa các lính canh và tù nhân trong quân đội.

Tiến sĩ Zimbardo cung cấp dùi cui gỗ cho thành viên tham gia và yêu cầu họ không làm hại tù nhân hoặc bỏ đói họ. Tuy nhiên, ông yêu cầu các lính canh áp dụng áp lực tâm lý bằng cách "tạo cho tù nhân những cảm giác nhàm chán, sợ hãi ở một mức độ nào đó, tạo ra một khái niệm rằng cuộc sống của họ hoàn toàn bị kiểm soát bởi chúng ta, bởi hệ thống này, bởi các bạn, và tôi. Và họ sẽ không có sự riêng tư ... Chúng tôi sẽ lấy đi sự tự do của họ theo những cách khác nhau. Nói chung, là tạo ra một cảm giác bất lực. Tức là, trong trường hợp này, chúng ta sẽ có tất cả sức mạnh và họ sẽ không có gì. " Những thành viên đóng vai tù nhân bị “bắt giam” ở nhà và bị “kết án” cướp vũ trang. Cảnh sát địa phương đã hỗ trợ Zimbardo tiến hành bắt giữ và làm thủ tục bắt giam tù nhân đầy đủ, gồm lấy dấu vân tay và chụp ảnh căn cước tù nhân.  Cảnh sát cũng giải tù nhân từ đồn cảnh sát đến nhà tù giả, ở đây những tù nhân bị lột đồ khám xét và nhận danh tính mới của họ.

Các kết quả khủng khiếp bắt đầu từ ngày thứ hai trở đi. Một số tù nhân bắt đầu chống đối lại chỉ thị của giám canh, và một giám canh đã dùng bình cứu hỏa tấn công các tù nhân. Trong vòng 36 giờ, một tù nhân bắt đầu trở nên điên loạn và la hét, nguyền rủa, và trở nên rất kích động. Phải mất một thời gian, nhóm giám sát thí nghiệm mới nhận ra rằng tù nhân này thực sự đang phải chịu đựng nỗi đau tâm lý. Càng về sau, các lính canh bắt đầu quấy rối các tù nhân về tinh thần và thể chất. Cuộc thử nghiệm bị buộc dừng lại chỉ sau sáu ngày, khi nhiều cai ngục ngày càng trở nên tàn nhẫn, và khoảng một phần ba số cai ngục đã biểu lộ những khuynh hướng tàn bạo thực sự. Hầu hết các những thành viên đóng cai ngục đều thất vọng khi thử nghiệm chỉ dừng lại sau sáu ngày (nguồn)

 

9) Thí nghiệm Milgram - Thí nghiệm tâm lý học Đại học Yale này đo lường sự sẵn sàng tuân theo một nhân vật có thẩm quyền của một đối tượng. Trong thí nghiệm, họ tách hai người tham gia thành hai phòng, họ có thể nghe thấy nhưng không thể nhìn thấy nhau. Sau đó, họ yêu cầu người thử nghiệm đặt câu hỏi cho người kia và nếu trả lời sai, họ sẽ bị điện giật. Trái với kỳ vọng của các nhà nghiên cứu, thử nghiệm cho thấy rằng một tỷ lệ rất lớn người dân sẵn sàng tuân theo, mặc dù không muốn, ngay cả khi có thể gây ra thương tích nghiêm trọng và đau khổ.

 

Thí nghiệm tâm lý, vô nhân đạo, khoa học, y học

@ library.weill.cornell.edu

Stanley Milgram, nhà tâm lý học tại Đại học Yale năm 1961, đã bắt đầu một loạt các thí nghiệm tâm lý xã hội để đánh giá sự sẵn lòng của những người tham gia nghiên cứu, là những người đàn ông từ nhiều ngành nghề khác nhau với trình độ học vấn khác nhau, tuân theo một nhân vật có thẩm quyền thực hiện hành vi mâu thuẫn với lương tâm cá nhân của họ. Cuộc thử nghiệm bắt đầu ba tháng sau khi phiên tòa xét xử Adolf Eichmann ở Jerusalem mở ra. Milgram đã phát triển nghiên cứu này để trả lời câu hỏi nóng của thời đại: “Liệu rằng Eichmann và hàng triệu người đồng lõa của ông trong cuộc thảm sát Holocaust chỉ làm theo lệnh? Liệu chúng ta có thể coi tất cả họ là những kẻ đồng lõa? " Thử nghiệm này được lặp lại nhiều lần trong nhiều năm qua với kết quả nhất quán trên toàn cầu.

Trong đó, họ đã giao vai trò của giáo viên và người học cho hai người tham gia. Họ đã chọn một diễn viên cho vai trò của người học và đối tượng kiểm tra cho vai trò của giáo viên. Tuy nhiên, họ không cho đối tượng biết rằng diễn viên cũng là một giáo viên. Thay vào đó họ chỉ nói phiếm qua. Milgram sau đó đặt cả hai trong một phòng liền kề và buộc nam diễn viên vào ghế điện. Ông cũng nói với đối tượng rằng người học (diễn viên) bị bệnh tim. Họ cũng cho giật điện đối tượng một cú sốc điện mẫu để trải nghiệm nỗi đau mà người học sẽ trải nghiệm. Họ đưa cho giáo viên một danh sách các cặp từ để dạy cho người học. Sau đó giáo viên sẽ đọc từ đầu tiên của mỗi cặp và cho người học bốn lựa chọn để chọn đúng câu trả lời. Với mỗi câu trả lời sai, giáo viên phải giật điện người học. Mức điện áp sẽ tăng 15 volt cho mỗi câu trả lời sai.

Một số đối tượng đã ngừng giật điện người học ở mức 135 volt, tuy nhiên, phần lớn vẫn tiếp tục khi họ được đảm bảo rằng họ sẽ không phải chịu trách nhiệm. Một số khác, khi nghe những tiếng la hét của người học, bắt đầu có các dấu hiệu căng thẳng cực kỳ chẳng hạn như cười một cách đầy lo lắng. Trong cuộc thí nghiệm đầu tiên, 65% đối tượng tham gia đã thực hiện sốc điện đến 450 volt, là mức điện áp cao nhất của thử nghiệm. Ngoài việc sốc điện, những người tham gia còn chịu đựng những căng thẳng tinh thần. (nguồn)

 

10) Nghiên cứu Quái vật - Thử nghiệm của Đại học Iowa liên quan đến trẻ mồ côi làm đối tượng từ Davenport, Iowa. Người giám sát chia các em này thành hai nhóm và sử dụng biện pháp điều trị kí năng nói riêng cho mỗi nhóm. Một nhóm được hướng dẫn với những lời lẽ tích cực và những nhóm còn lại phải nghe những lời hướng dẫn tiêu cực. Kết quả là có những đứa trẻ bị ảnh hưởng tâm lý kéo dài.

 

Thí nghiệm tâm lý, vô nhân đạo, khoa học, y học

@library.weill.cornell.edu

Năm 1939, Wendell Johnson, giáo sư đại học Iowa với sự trợ giúp của sinh viên học ông, Mary Tudor, đã tiến hành một cuộc thử nghiệm với 22 đứa trẻ mồ côi từ Davenport, Iowa. Họ chọn 22 đối tượng từ một trại trẻ mồ côi thương binh liệt sĩ ở Iowa. Họ giấu những đứa trẻ mục đích của nghiên cứu và nói rằng chúng sẽ được điều âm ngữ trị liệu. Trong số 22 sinh viên, có 10 sinh viên nói lắp, và mục đích của các thí nghiệm này là cố làm cho trẻ khỏe mạnh nói lắp; và xem liệu động viên trẻ nói lắp rằng cách nói của chúng không có vấn đề gì có đem tác dụng nào không.

Thử nghiệm này tạo ra những ảnh hưởng tâm lý tiêu cực lên những trẻ mồ côi thuộc nhóm hai. Một vài em đã bị nói lắp đến suốt đời. Cuộc thử nghiệm được gọi là “Thử nghiệm Quái Vật” vì một số đồng nghiệp của Johnson đã kinh hoàng khi biết ông thử nghiệm trên trẻ mồ côi để xác nhận một giả thuyết. Johnson chưa bao giờ công bố kết quả của các thí nghiệm trong bất kỳ tạp chí chuyên ngành nào và luận án của Tudor là bản ghi chính thức duy nhất các chi tiết của thí nghiệm. Cuộc thử nghiệm đã được giấu kín vì ông lo sợ bị tổn hại danh tiếng, trong thời kì đang rộ lên những cuộc thử nghiệm con người do Đức Quốc Xã thực hiện trong Chiến tranh thế giới II. 

 

Tiếp theo là những thí nghiệm ám ảnh nhất, đã xem rồi sẽ rất khó quên.

Nghiên cứu khoa học là để phát triển hơn, nhưng nhiều thí nghiệm lại trái với đạo đức con người, gây phẫn nộ dư luận. Các bạn nhớ chia sẻ bài viết này nhé!

Bài viết liên quan: