Những thí nghiệm vô đạo đức nhất từng được thực hiện

Ngày 13/05/2017 - Đăng bởi Lalung.vn
Thích & chia sẻ:

Trong khoa học, thí nghiệm là một bước để chứng minh, kiểm tra một lý thuyết hoặc một giả thuyết mới để đưa ra quyết định loại bỏ hay ứng dụng chúng.Bên cạnh những thí nghiệm “lành tính”, tức là chỉ thực hiện trên động vật thì đáng buồn thaylịch sửđã không ít lần ghi nhận nhiều thí nghiệm hết sức khủng khiếp và vô nhân đạo thực hiện trên cơ thể người sống.Càng đáng nói hơn khi những dự án đó lại được thực hiện theo một cách gián tiếp hoặc trực tiếp bởi các nhà cầm quyền, nguồn tài trợ từ chính phủ hoặc đứng sau sự chỉ đạo thực hiện một cách hợp pháp trên cơ thể người sống mà hoàn toàn không màng đến sức khỏe, tinh thần và thậm chí là tính mạng của đồng loại. Dưới đây là những thí nghiệm vô đạo đức nhất từng được thực hiện.

 

1) Quân đội Nhật Bản thực hiện các thí nghiệm man rợ lên cơ thể người sống với nạn nhân là nam giới, phụ nữ, trẻ em và trẻ sơ sinh mà không gây mê

unit 731

@firsttoknow.com

“Unit 731” (Đơn vị 731) là tên một dự án nghiên cứu và phát triển vũ khí sinh học tuyệt mật của thuộc quân đội Hoàng gia Nhật Bản. Trại tập trung này được đích thân bác sĩ ngoại khoa kiêm tướngShiro Ishii lãnh đạo dưới sự chỉ đạo thành lập của Bộ trưởng Bộ Y tế Nhật Bản làĐại tá Chikahiko Koizumi vào những năm 1930. Núp bóng dưới danh nghĩa là "Cục phòng chống dịch bệnh và xử lý nguồn nước", đơn vị 731 đã tiến hành một số thí nghiệm cực kỳ man rợlên cơ thể người sống, gây ra cái chết của hàng nghìn người trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai (1937-1945), những năm giai đoạn đầu Thế chiến II.

Hàng ngàn tù binh chiến tranh và dân thường sau khi bị bắt giữ bất hợp pháp sẽ được tập trung về “trại tập trung” và trở thành những “con chuột” thí nghiệm cho dự án vô nhân đạo này. Không chỉ lây nhiễm cho họ những căn bệnh khác nhau bằng cách cấy thẳng mầm bệnh vào cơ thể như kiết lỵ, dịch hạch, thương hàn…, các “lương y tử thần” còn thực hiện các ca phẫu thuật mà không hề gây tê và hầu hết đều tiến hành khi người bệnh vẫn còn sống.Nhẫn tâm hơn, nhiều tay bác sĩ còn cắt bỏ tay chân của nạn nhân sau đó khâu chúng vào phía sau cơ thể, mổ sống người moi cơ quan nội tạng ra rồi khâu chúng lại theo vị trí dị hoặc.Kết quả thí nghiệm này sẽ được chúng sử dụng để nghiên cứu sức chịu đựng của cơ thể người.Chưa dừng lại tại đó, để nghiên cứu bệnh giang mai, các bác sĩ đã cho những người bị nhiễm bệnh và không bị nhiễm bệnh quan hệ với nhau,sau đó quan sát quá trình tiến triển bệnh và bỏ mặc nạn nhân bị căn bệnh giày vò đến chết. Trong một vài thí nghiệm, những tên “đồ tể” này còn cưa đứt bất kỳ bộ phận trên cơ thể nạn nhân chỉ đơn thuần với mục đích quan sát xem mất bao lâu họ sẽ chết do mất máu.

Trong thí nghiệm kiểm tra tê cóng, các tù nhân sẽ bị đóng băng một phần cơ thể, sau đó những bộ phận này được rã đông để nghiên cứu thời gian và quá trình hoại tử tế bào. Trong thi nghiệm này, chân tay của “chuột” thí nghiệm sẽ bịđập vỡ để xác định xem khu vực đóđã bị đông cứng hoàn toàn hay chưa. Ngoài ra, đơn vị 731 còn sử dụng con người như là một mục tiêu để thử nghiệm tính hiệu quả của các loại bom và vũ khí sinh học khác. Các thí nghiệm tàn độc loại này sẽ được tiến hành khi tù nhân đã bị buộc vào các cọc gỗ ở các vị trí khác nhau xung quanh một quả bom rồi kích nổ hoặc nã súng phun lửa vào người sống…

 

2) Chính phủ Hoa Kỳ tiến hành dự án nghiên cứu bệnh giang mai Tuskegee. Trong thí nghiệm này, người bệnh bị bỏ mặc đến chết thay vì được điều trị dù lúc này thế giới đã phát hiện ra liệu pháp chữa trị giang mai hiệu quả bằng penicillin.

Tuskegee

@grinnell.edu

Dự án thí nghiệm nghiên cứu bệnh giang mai Tuskegee đã được thực hiện bởi Sở Y tế Công cộng Hoa Kỳtừ năm 1932 đến1972 tại Macon County, Alabama (Mỹ). Thí nghiệm này được thực hiện nhằm quan sát sự tiến triển tự nhiên của bệnh giang maidưới chiêu bài lựa ra những người được chọn để được hưởng chính sách chăm sóc sức khỏe miễn phí từ chính phủ Hoa Kỳ mà chủ yếu là những bệnh nhân nam người Mỹ gốc Phi. Trong số những người tham gia thí nghiệm có 399 bệnh nhân đã mắc bệnh giang mai và 201 người không mắc bệnh (sẽ bị nhiễm bệnh chủ động sau đó).Mang tiếng là một chính sách vì sức khỏe song những bệnh nhân này sẽ không bao giờ được chữa bệnh, thay vào đó các bác sĩ chỉ xem họ như những “con chuột bạch” không hơn không kém để quan sát tiến triển của bệnh mà thôi.Điều đáng nói là sự từ chối điều trị này xảy ra ngay vào lúc y học đã tìm ra penicillin, một loại kháng sinh đã được chứng minhlà có thể điều trị bệnh giang mai.

Vào cuối năm 1972, chỉ có 74 trong số các đối tượng thí nghiệmmay mắn sống sót. Từ 399 bệnh nhân ban đầu, 28 người đã chết vì bệnh giang mai, trong đó 100 người tử vong do biến chứng liên quan sau khi đã lây bệnh cho 40 người vợ của mình. Dã man là vậy song Đại học Tuskegee, đơn vịchủ quản tiến hành thí nghiệm này vẫn không bị truy cứu trách nhiệm bởi đằng sau đó là sự ngầm cho phép của chính phủ đương thời.

 

3) Mỹ tiến hành dự án MK-Ultra, nơi thường dân sẽ bị tra tấn thần kinhvới mục đích tạo ra một đội quân bất khả chiến bại

MK-Ultra

@sometimes-interesting.com

Vào đầu những năm 1950 cho đến năm 1953, Văn phòng phân tích tình báo khoa học CIA đã ký thông qua một dự án tra tấn tù binh mang tênMK-Ultra. Bộ phận Vận hành đặc biệt của Quân đoàn Hóa chất thuộc Quân đội Hoa Kỳ được lệnh phối hợp tiến hành các cuộc thí nghiệm.Dự ánMK-Ultrabao gồm các cuộc thí nghiệm được thực hiện nhằm mục đích phát triển các loại thuốc có khả năng kiểm soát tâm trí người bệnh nhằm khai thác thông tin gián điệp trong thời chiến tranh lạnh.Bên cạnh mục đích tra khảo tù binh, các loại thuốc gây ảo giác,chi phốithần kinh khác cũng được nghiên cứu và tiến hành thử nghiệm bằng cách tiêm vàocác đối tượng thí nghiệm.

Nạn nhân của dự án vô nhân đạo này chủ yếu là tù binh, dân thường, người tâm thần và gái mại dâm. Họ sẽ bị tiêm não vào những loại thuốc kích thích,gây ảo giác qua đó khống chế hệ thần kinh khiến đối tượng thí nghiệm không còn sợ hãi, không còn biết đau đớn.Họ được “tạo” ra để trở thành những cỗ máy giết người chỉ biết phục tùng mọi mệnh lệnh từ chỉ huy, không đầu hàng hay tiết lộ thông tin dù bị chiêu dụ bằng vật chất hoặc bị tra tấn dã man thế nào đi nữa.

Năm 1973, Richard Helms lúc bấy giờ làGiám đốc của CIA đã ra lệnhphá hủy tất cả các dữ liệu liên quan đến dự án MK-Ultr. Hành động nàyđã khiến mọi nỗ lực điều tra tìm chứng cứnhằm phanh phui tội ác chiến tranh này ra ánh sáng đến nay vẫn chưa thể thực hiện được.

 

4) Trong Thế chiến thứ hai, Đức Quốc xã tiến hành thí nghiệm với mục đích tạo một chủng tộc người thượng đẳng

song sinh

@all-that-is-interesting.com

Cuộc thí nghiệm trên người sống được Đức Quốc xã thực hiện từ năm 1943 đến 1944 với các tù nhân ở Auschwitz. Theo lệnh của Hitler, tiến sĩ Josef Mengele đã cho thực hiện các cuộc thí nghiệm nhằm tìm cách nhân giống nhanh chủng tộc người mà hắn ta cho là thượng đẳng. Với mục tiêu này, tên bác sĩ đồ tể Mengele đã thực hiện rất nhiều cuộc thí nghiệm tàn độc lên hàng nghìn cặp song sinh với hy vọng sẽ giải mã bí mật về gen di truyền của các trường hợp mang thai đôi. Các thí nghiệm do Mengele thực hiện đối với cặp sinh đôi bao gồm việc moi nội tạng mà không gây mê,tiêm nhiễm vi-rút gây bệnh hoặc truyền máu từ một người đang bị bệnh sang người khỏe mạnh trong một cặp song sinh, thậm chí hắn ta còn khâu các nạn nhân lại với nhau để tạo ra cặp sinh đôi dính liền thân. Nhiều đứa trẻ đã chết do không chịu nổi thí nghiệm đau đớn đến tàn khốc. Ngoài ra,nạn nhân tử vong sau đó sẽ bị Mengele tiêm thuốc chloroform thẳng vào tim. Theo một báo cáo, tên tiến độ vô nhân tính đã thực hiện thí nghiệm tởm lợm lên trên 1.000 cặp song sinh và chỉ có khoảng 200 người sống sót sau những thí nghiệm này.

 

5) Cuộc thử nghiệm trên cơ thể người sống tại Trại 22 ở Bắc Triều Tiên liên quan đến khí độc bằng cách chọn ra 50 nữ tù nhân khỏe mạnh và buộc họ phải ăn cải bắp nhiễm độc

triều tiên

@keywordsking.com

Nơi diễn ra tội ác khủng khiếp này là một địa điểm nằm ở quận Hoeryong, tỉnh Bắc Hamgyong, Bắc Triều Tiên được thành lập vào khoảng năm 1965 với tên gọi là Trại 22. Theo bà Lee Soon Ok, nạn nhân may mắn còn sống năm đó kể lại, binh lính đã bắt năm mươi phụ nữ làm đối tượng thí nghiệm. Tất cả phụ nữ được chọn sẽ bị ép phải ăn cải bắp nhiễm độc, bất chấp những tiếng kêu la đau xé ruột gan từ những nạn nhân đang bắt đầu lịm đi. Những trường hợp từ chối ăn cải bắp sẽ bị kết tội phản bội đất nước và cả gia đình họ sẽ phải chịu án phạt tử hình. Sau khi ăn vào thứ thực phẩm độc hại đó, gần như tất cả 50 nạn nhân sẽ bị nôn ra máu, xuất huyết hậu môn suốt 20 phút trước khi đón nhận cái chết từ từ ập đến.

Tệ hại hơn, trại 22 còn cung cấp các phòng khí độc được trang bị để phục vụ cho các thí nghiệm nghẹt thở. Những đối tượng thực hiện thí nghiệm này sẽ được đưa vào phòng theo từng đợt, mỗi nhóm như vậy gồm từ ba đến bốn người và thường là người trong cùng gia đình. Sau khi hoàn tất các công đoạn kiểm tra y tế, cửa phòng này sẽ được khóa chặt và chất độc được bơm qua ống vào phòng trong khi những kẻ thực hiện sẽ quan sát tình trạng của các nạn nhân từ bên kia qua lớp kính hai mặt.

 

6) Liên Xô bí mật thực hiện thí nghiệm phát triển một số chất độc chết người như khí mustard, ricin, digitoxin, curare, cyanide trên các tù binh và nhiều dân thường khác

thuốc độc liên xô

@modernnotion.com

Được thành lập vào năm 1921, phòng thí nghiệm độc hại của Cơ quan mật vụ Liên Xô là một cơ sở nghiên cứu đồng thời cũng là trụ sở chính nơi dự án thí nghiệm vô nhân tính này được thực hiện. Tại đây, cơ quan mật vụ đã thực hiện hàng loạt các thí nghiệm nhằm tìm ra một loại hóa chất không màu, không mùi và không thể bị phát hiện ra kể cả khi tiến hành khám nghiệm tử thi. Chất độc chết người dưới danh nghĩa là “thuốc” đã được đưa ra thử nghiệm lên các nạn nhân bằng cách trộn vào đồ ănvà thức uống của họ. Để chắc chắn độc tính của các chất độc có thể tác dụng với tất cả mọi đối tượng, Mairanovsky, người đứng đầu dự án này đã lựa chọn những người được coi là“chuột thí nghiệm” có tình trạng thể chất và độ tuổi khác nhau.

Kết quả, một loạiđộc chất sở hữu đầy đủ các tính chất mong muốn gọi là C-2 hoặc K-2 (carbylamine-cholin-clorua) ra đời. Khi được đưa vào cơ thể người, chất độc này sẽ nhanh chóng biến đổi các nạn nhân về mặt thể chất như bị co rút lại, suy nhược trầm trọng, tàn phá hệ thần kinh khiến họ không thể nói và tử vong trong vòng 15 phút.

 

7) Dự án Manhattan của Mỹ bí mật tiêm plutonium vào 18 cơ thể bệnh nhân để thử nghiệm sức chịu đựng của cơ thể khi chịu ảnh hưởng của bom nguyên tử

Manhattan

@topinfopost.com

Các thí nghiệm plutonium thuộc dự án Manhattan được thực hiện từ ngày 10/4/1945 đến 18/7/1947. Trong cuộc thí nghiệm này, gần 20 bệnh nhân người Mỹ đang nằm điều trị tại bệnh viện đã bị tiêm plutoni với liều lượng dao động từ 95-5900 nano mà không hề hay biết. Cứ mỗi lần tiêm, các bệnh nhân chỉ nghĩ rằng đó là một lần điều trị thông thường mà không hề biết họ đang bị tiêm chất phóng xạ chết người plutoni vào người. Cuộc nghiên cứu bí mật này đã đưa vào một lượng cực nhiều chất phóng xạ vào cơ thể bệnh nhân, đủ để lưu lại những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng và kéo dài, thậm chí nhiều người còn bị chết ngay sau khi bị tiêm do sốc thuốc.

Đây chỉ là một phần trong dự án Manhattan và nhiều dự án vô nhân tính khác thực hiện trên cơ thể người sống dưới danh nghĩa hợp pháp tại Mỹ. Trong một số thí nghiệm, thậm chí ê kíp gồm những tên “bác sĩ tử thần” còn không ngần ngại sử dụng trẻ mồ côi và trẻ sơ sinh như “chuột thí nghiệm”. Những em bé đáng thương sẽ bị cho bú sữa nhiễm phóng xạ trong khi những đứa trẻ lớn hơn thì bị tiêm thẳng chất phóng xạ vào người.

 

8) Dự án thí nghiệm thuốc chống sốt rét lên các tù nhân ở nhà tù Stateville Penitentiary bất chấp những tác dụng phụ nguy hiểm. Hơn một nửa số người tham gia thí nghiệm đã thiệt mạng.

Stateville Penitentiary

@viralthread.com

Vào những năm 1940, dự án nghiên cứu bệnh sốt rétđã được tiến hành trên một tầng của bệnh viện nhà tù Stateville Penitentiary tạiJoliet, gần bang Illinois (Mỹ).Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu tác động của các loại thuốc chống sốt rét khác nhau lên hệ miễn dịch cơ thể người.Để tiến hành thí nghiệm, các bác sĩ của Đại học Chicago đã nuôi Anopheles,loại muỗi vằn mang chủng virus sốt rét nguy hiểm sau đó truyền bệnh lên các tù nhận khỏe mạnh. Thông thường, mỗi người sẽ bị cắn từ 10 con muỗi bị nhiễm bệnh, 441 tù nhân đã chết do sốt cao và đau tim. Dự án nghiên cứu sốt rét tạinhà tù Stateville Penitentiary kéo dài đến 29 năm mới dừng lại do vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ phía dư luận.

 

9) Thời Chiến tranh lạnh, Chính phủ Anh thực hiện thí nghiệm khí độc Mustard như một loại vũ khí hóa học mới lên cơ thể người

Mustard

@achomeopaths.org

Từ những năm 1930 và những năm 1940, Chính phủ Anh đã sử dụng người sống làm vật thí nghiệm nhằm xác định tính hiệu quả của một loại vũ khí phục vụ chiến tranh hóa học trên quy mô lớn. Trên thực tế, họ đã sử dụng hàng trăm thương binh người Anh và Ấn Độ vào các cuộc thí nghiệm. Trong thí nghiệm, những người lính Ấn Độ phải mặc quần cụt và áo sơ mi mỏng sau đó bị đẩy vào buồng khí để từ từ trải nghiệm cảm giác thịt da cháy rửa do khí Mustard. Liều lượng khí độc này liên tục được các nhà nghiên cứu gia giảm để xác định liều lượng thích hợp để khi sử dụng trên chiến trường. Nhiều người trong số các đối tượng thí nghiệm bị bỏng nặng do tiếp xúc với khí độc và phải nhập viện để điều trị. Hiện vẫn chưa rõ kết quả điều trị có khả quan và liệu những người này có phải là tình nguyện viên như lời giải thích của chính phủ Anh hay không.

 

10) Dự án 4.1 là một nghiên cứu bao gồm các cuộc thí nghiệm độ phơi nhiễm phóng xạtrên những cư dân quần đảo Marshall

dự án 4.1

@umich.edu

Mỹ đã thực hiện một nghiên cứu y học mang tên“Dự án 4.1” lên 239 cư dân tại quần đảo Marshall, Micronesia, những người đã bị phơi nhiễm với bức xạ đáng kể từ vụ thử hạt nhân Castle Bravo ngày 1/3/1954. Điều đáng nói là dự án này cũng bao gồm cả 28 người Mỹ sốngbị phơi nhiễm cũng sốngtại đảo Rongerik Atoll. Những người tham gia vào thí nghiệm này bị nhiễm phóng xạ với mức độ khá trầm trọng được xác định từ 14 đến 175 rads.

Đa số những đối tượng này ban đầu đều không có dấu hiệu nhiễm bệnh do phóng xạ. Nhưng trong vòng vài ngày, các triệu chứng nghiêm trọng đầu tiên như rụng tóc, da bị tổn thương và những khối u bắt đầu xuất hiện. Kết quả trong các tạp chí y khoa chuyên nghiệp như Tạp chí Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ được xuất bản năm 1955 đưa ra báo cáo tóm tắt kết luận rằng không có nhiều biến chứng lâu dài với những người tham gia thí nghiệm. Tuy nhiên trên thực tế, 55% trong số 82 người bị phơi nhiễm vào năm 1954 trên đảo Rongelap Atoll và đảo san hô Ailinginae được ghi nhận đã bị ung thư.

 

Những thí nghiệm vô đạo đức nhất từng được thực hiện trên vẫn chưa phải là tất cả:

Hãy thích và chia sẻ những mặt tối của khoa học đến nhiều người bạn nhé! Mọi người cũng đừng quên ghé fanpage LaLung.vn để xem them nhiều thông tin khác.

Bài viết liên quan: